Những quả bóng đầu tiên được làm bằng gỗ và sau đó được làm bằng đất sét. Một trong số loại bi này vẫn được sử dụng tốt cho đến đầu thế kỷ 20.
Tiếp theo là ngà voi được sử dụng và ưa thích nhất là từ năm 1627 cho đến đầu thế kỷ 20. Một số tài liệu lưu trữ của Công tước xứ Norfolk Anh Quốc cho rằng bi da ngà voi được biết đến từ năm 1588.
Nhưng giữa những năm 1800, voi đã bị giết mổ hàng loạt cho việc sản xuất trái bi ngà voi đến mức báo động mới theo kịp với nhu cầu cho loại trái bida này. Từ một ngà voi trung bình chỉ có thể chế tạo được khoảng 8 trái bi.
Ngành công nghiệp sản xuất trái bi da nhận ra rằng việc sản xuất trái bi da ngà voi có thể làm cho voi có nguy cơ tuyệt chủng. Những nhà phát minh đã được thách thức nghiên cứu đến một vật liệu thay thế. Các nhà cung cấp mà đại diện là tập đoàn Brunswick (nhà cung cấp nghành bida nổi tiếng Hoa Kỳ) treo giải thưởng $10,000 cho một phát minh về lĩnh vực này.
Năm 1869, John Wesley Hyatt phát minh ra một loại vật liệu có thể chế tạo ra trái bi da hoàn hảo được gọi là nitrocellulose (một loại nhựa dầu được chế tạo từ vỏ cây-pholibre). Đến năm 1870 nó đã được mang nhãn hiệu thương mại Celluloid, trái bi da đầu tiên của nghành công nghiệp nhựa.
Tuy nhiên, bản chất của nhựa dầu dễ bay hơi gây cháy nổ trong sản xuất, vì thế việc sử dụng vật liệu này để sản xuất trái bi da được cho là không thực tế. Có một số trường hợp trái bi nhựa dầu này phát nổ trong khi đánh bi một cách thô bạo, nhưng không có nguồn đáng tin cậy để có thể chứng minh điều này.
Sau đó, để tránh vấn đề bất ổn về nhựa, ngành công nghiệp thử nghiệm với nhiều loại vật liệu tổng hợp khác cho trái bi da như nhựa tổng hợp Bakelite, thạch anh Crystalate và các hợp chất nhựa khác.
Trái bi da đang được sử dụng ngày nay được đúc từ nguyên liệu nhựa tổng hợp với những yêu cầu đòi hỏi chống nứt và sứt mẻ rất cao. Hiện nay Saluc SA – một công ty sản xuất trái bi da chuyên nghiệp của Bỉ, dưới thương hiệu Aramith và Brunswick Centennial, sản xuất trái bi da nhựa tổng hợp phenolic. Chất dẻo và vật liệu nhựa khác như polyester, acrylic trong cũng đang được sử dụng bởi các hãng danh tiếng như Elephant Balls Ltd và Frenzy Sport.
Ngành công nghiệp sản xuất bóng bi-a sớm nhận ra rằng nguồn cung ngà voi ngày càng khan hiếm, và sự nguy hiểm để kiếm được ngà voi ngày càng tăng. Với tình trạng ngà voi ngày càng hiếm, một nhà sản xuất người Mỹ đã treo thưởng 10 ngàn đô la cho bất cứ ai tìm ra phương pháp mới để sản xuất bóng bi-a. Và John Wesley Hyatt, một kỹ sư đến từ New York, cùng với anh trai của mình Isaiah Smith Hyatt, đã tạo ra celluloid, một hợp chất có thuộc tính tương tự như ngà voi, có thể chạm khắc và tạo hình. Tuy nhiên, hợp chất đó không thể đem đi đúc giống như ngà voi.
Sau đó, để tránh những vấn đề bất ổn nhựa, ngành công nghiệp đã thử nghiệm với các vật liệu tổng hợp khác cho bóng bi-a như Bakelite, Crystalite và các hợp chất nhựa khác. Để đáp ứng yêu cầu khắt khe ngày nay, bóng bi-a được làm vật liệu nhựa có khả năng chống va chạm mạnh.
Cho đến cuối thế kỉ 20, bóng bida làm từ ngà voi vẫn được sản xuất để đáp ứng cho những trận đấu đỉnh cao mang đậm tính nghệ thuật.
Quá trình sản xuất
Quá trình sản xuất của bóng bi-a được cải tiến rất nhiều. Một quả bóng bida được làm từ nhựa polyester không no phản ứng với canxi cacbonat, với chất xúc tác peroxide hữu cơ. Bóng được đúc khuôn bởi phương pháp đúc trong môi trường chân không. Không khí bên trong khuôn hút ra bởi loại máy hút đặc biệt, làm cho quả bóng trở nên ngày đặc hơn.
Với hệ thống sản xuất hiện đại, số lượng bóng lỗi hoàn toàn bị loại bỏ. Kết quả chúng ta được trái bóng hình cầu tròn vẹn, đặc ruột. Trọng lượng của quả bóng được phân bố đều do không khí bị loại bỏ. Bóng bida sau khi thành hình sẽ được đem đi nhuộm để trở thành 1 quả bóng bida đúng yêu cầu, quy cách.